Bài 58: Kích thích điện trị liệu

Ở trong bài này chúng ta sẽ đi tìm hiểu Bài 58: Kích thích điện trị liệu (Lưu ý bài viết dài và có nhiều kiến thức chuyên sâu, mọi người chú ý đọc hết để hiểu rõ tránh việc hiểu sai hoặc không hiểu làm ảnh hưởng tới bài tiếp theo) 

Bài 58: Kích thích điện

1. Cơ sở lý thuyết – Kích thích điện trị liệu

Khi dòng điện chạy qua cơ thể, các thay đổi xảy ra tại nhiều hệ thống chức năng. Dòng điện tạo ra điện trường trong tổ chức sinh học, dẫn tới việc kích thích điện để trị liệu hoặc thay đổi quá trình sửa chữa và tạo co cơ do kích thích thần kinh hoặc kích thích cơ. Thêm vào đó, dòng điện cũng kích thích thần kinh cảm giác để điều trị đau và tạo điện trường trên bề mặt da để vận chuyển các ion có tác dụng điều trị vào da hoặc qua da.

Kích thích điện có khả năng gia tốc và khuyến khích quá trình lành vết thương nhờ ức chế sự tăng trưởng của vi khuẩn, tăng tuần hoàn tại chỗ và tăng cường các quá trình sửa chữa tự nhiên của cơ thể.

2. Kích thích thần kinh cơ – Kích thích điện trị liệu

Hệ tim phổi:

Kích thích điện trị liệu tạo sự co cơ, do đó kích thích tuần hoàn bằng cách bơm máu và chất lỏng qua hệ mạch máu và hệ bạch huyết về tim, tăng cung lượng tim. Kích thích điện tăng các enzyme oxy hóa trong cơ. Điều đó đi kèm với tăng vận chuyển oxy, protein, myoglobin và tăng số lượng mao mạch vận chuyển oxy tới cơ. Co cơ tại chi dưới sẽ buộc chất lỏng thoát khỏi các vùng trung gian, giúp tăng dòng máu và dòng bạch huyết về tim. Điều đó giúp giảm nguy cơ tạo huyết khối tại các tĩnh mạch sâu.

Hệ nội tiết:

Kích thích thần kinh cảm giác giúp enkephalin phóng thích cục bộ lan tỏa ra khắp hệ thần kinh và giúp giải phóng các endorphin từ tuyến yên. Co cơ làm tăng sự vận chuyển các hormone qua hệ tuần hoàn.

Hệ tiêu hóa, tiết niệu, phụ khoa:

Kích thích điện có thể gia cường chương trình vận động tự chủ cho hệ cơ đáy chậu. Nó có thể làm mạnh cơ đáy chậu của bệnh nhân tiểu không tự chủ và phụ nữ sau mang thai và sinh nở.

Hệ da:

Dòng điện cường độ thấp có thể điều trị vết thương bằng cách tạo ra điện tích dương tại vết thương để khuyến khích quá trình sửa chữa tự nhiên. Kích thích điện tăng dòng máu da và cải thiện tính thấm da khi kích thích cơ chi dưới bệnh nhân tổn thương cột sống.

Hệ cơ xương khớp và hệ thần kinh cơ:

Kích thích điện tạo thuận hoạt tính cơ và tái rèn luyện cơ thực hiện các chức năng sinh lí. Nó có thể dùng để tăng tầm vận động của chi sau thời gian bất động hoặc sau phẫu thuật. Nó làm mạnh cơ nhờ hoạt hóa các đơn vị vận động. Kích thích điện tối thiểu hóa sự teo cơ, khuyến khích tái sinh cơ. Kích thích điện có thể cung cấp các tín hiệu cảm thụ bản thể, vận động và cảm giác trực tiếp tới cơ khi hệ thần kinh ngoại biên không hoạt động.

Hệ mạch máu và bạch huyết ngoại biên:

Kích thích điện có thể tăng sự tiêu hút tĩnh mạch và bạch huyết hiệu quả khi các vận động chủ động không thể thực hiện được hoặc khi cơ co không đủ mạnh để tăng dòng máu tới vùng cần tác động. Với vùng phù nề, kích thích điện tăng vận chuyển các protein tích điện vào mạch bạch huyết, và khi thể tích tăng, tốc độ co của dòng bạch huyết sẽ tăng.

3. Kích thích thần kinh bằng điện qua da (TENS) – Kích thích điện trị liệu

Hệ tim phổi:

TENS kích thích hoạt tính bơm của cơ, do đó tăng dòng máu mao mạch và dòng bạch huyết về tim. Cung lượng tim và thể tích tống máu cũng tăng.

Hệ nội tiết:

TENS ức chế phóng thích chất P từ các tế bào T và tăng giải phóng morphine nội sinh để trung hòa tác dụng gây đau của chất P trong cơ thể.

Hệ tiêu hóa, tiết niệu, phụ khoa:

TENS có thể dùng để giảm đau nội tạng. Nó hiệu quả trong điều trị đau do giãn cột sống và đau cấp khi phụ nữ đến tháng.

Hệ da:

TENS tăng dòng máu tới các lớp da và tăng khả năng bài tiết da.

Hệ cơ xương khớp:

TENS có thể tạo ra các phản ứng vật lý và hóa học liên quan với sự co cơ tự chủ.

Hệ thần kinh cơ:

TENS kinh điển (tần số cao, cường độ thấp) hoạt hóa các dây Aβ đường kính lớn để kích thích các nơ-ron trung gian phóng thích dynorphin và một số morphine nội sinh khác tại sừng sau tủy gai. Điều đó dẫn tới sự ức chế các dây dẫn đau Aδ và C đường kính nhỏ qua việc việc ức chế tiền và hậu xy-náp đối với các tế bào truyền T để đóng cổng đau. TENS kiểu châm cứu (tần số thấp, cường độ cao) kích thích các dây đau, do đó tăng giải phóng các endorphin tại tuyến yên và nhiều tổ chức thần kinh khác, dẫn tới tác dụng giảm đau.

TENS mạnh (tần số và cường độ rất cao) kích thích các nhân giầu morphine nội sinh và chất xám quanh cống; qua đó hoạt hóa các con đường ức chế đau hướng xuống, dẫn tới tác dụng đóng cổng đau tại tủy gai. Còn TENS kinh điển được tải bằng các tần số mang thấp (1 – 5 Hz) có thể có tác dụng tổng hợp của TENS kinh điển và TENS kiểu châm cứu.

Các sản phẩm liên quan có thể bạn quan tâm:

4. Dòng giao thoa 

Hệ tim phổi:

Với dòng giao thoa, tác dụng trên hệ tim phổi là hệ quả của sự tăng hoạt tính bơm của cơ, dẫn tới tăng dòng máu địa phương và tăng cung lượng tim.

Hệ nội tiết:

Dòng giao thoa kích thích phóng thích các morphine nội sinh có tác dụng giảm đau. Nó cũng có thể kích thích vùng hạ đồi bằng cách tăng các yếu tố kích thích vùng trước và vùng giữa.

Hệ tiêu hóa, tiết niệu, phụ khoa:

Dòng giao thoa có thể làm mạnh cơ đáy chậu sau mang thai và sinh nở.

Hệ da:

Dưới tác dụng của dòng giao thoa, tuần hoàn da được cải thiện. Da có thể bị kích thích với bệnh nhân da nhờn hoặc dị ứng với điện cực.

Hệ cơ xương khớp:

Tần số phách nhỏ (0 – 10 Hz) có thể dùng để kích thích cơ còn phân bố thần kinh. Dải tần 20 – 50 Hz dùng để tạo sự co cứng.

Hệ thần kinh cơ:

Dòng giao thoa được cho là có tác dụng giảm đau theo ba cơ chế tương tự các dòng TENS: (1) kích thích dây lớn Aβ để đóng cổng tại tủy gai; (2) tăng phóng thích các morphine nội sinh; và (3) hoạt hóa các con đường ức chế đau hướng xuống. Tuy nhiên các nghiên cứu RCT chưa ủng hộ các giả thuyết này.

Đọc tiếp: Bài 59: Ion di ( Bấm để đọc )

Theo dõi thêm các thông tin liên quan về VLTL- PHCN tại đây.

Hãy liên hệ ngay với chúng tôi khi cần tư vấn và giúp đỡ!

Nhắn Zalo
Gọi ngay