Bài 62: Siêu âm điều trị

Ở trong bài này chúng ta sẽ đi tìm hiểu Bài 62: Siêu âm điều trị lâm sàng (Lưu ý bài viết dài và có nhiều kiến thức chuyên sâu, mọi người chú ý đọc hết để hiểu rõ tránh việc hiểu sai hoặc không hiểu làm ảnh hưởng tới bài tiếp theo) 

Bài 62: Siêu âm điều trị

1. Cơ sở lý thuyết – Siêu âm điều trị lâm sàng

Siêu âm điều trị có các tác dụng nhiệt và phi nhiệt. Khi dùng tác dụng nhiệt, siêu âm làm tăng nhiệt độ tổ chức nằm sâu dưới da (mạc, bao khớp, dây chằng và gân) qua quá trình biến đổi năng lượng sóng âm thành nhiệt năng. Dao động của các cấu trúc tế bào và dưới tế bào do các xung động siêu âm, cũng như sự ma sát giữa chúng khi rung động sẽ tạo sự tăng nhiệt. Siêu âm chế độ liên tục có thể tăng nhiệt độ tổ chức dưới da và tốc độ dẫn truyền thần kinh.

Các hiệu ứng phi nhiệt là kết quả của sự tạo khoang và dòng chảy âm vi mô xung quanh các khoang ổn định. Điều đó làm tăng tính thấm màng tế bào (dẫn tới tăng nồng độ Ca2+ nội bào) và tính thấm da. Vì ion canxi là chất truyền tin thứ hai của tế bào, nên hoạt tính tế bào tăng.

Các sản phẩm liên quan:

2. Tác dụng trên các hệ chức năng

Hệ tim phổi:

Siêu âm nhiệt làm giãn mạch, dẫn tới tác dụng tăng dòng máu và tăng trao đổi oxy tại màng đáy của vùng thiếu oxy. Tuy nhiên siêu âm vùng mạch cảnh hoặc vùng hạch cổ có thể gây rối loạn nhịp tim.

Hệ nội tiết:

Siêu âm làm tăng nhiệt độ tổ chức, tốc độ chuyển hóa cục bộ và hoạt tính enzyme.

Hệ tiêu hóa, tiết niệu, phụ khoa:

Siêu âm vùng tử cung có thể tạo khoang trong nước tiểu và gây tổn thương thai nhi.

Hệ da:

Mô nhiều nước ít hấp thụ siêu âm (vì siêu âm dễ truyền qua nước) so với mô nhiều protein. Do đó siêu âm ít tác động lên lớp thượng bì. Tuy nhiên với các lớp da bên dưới, tăng nhiệt và vi mát-xa cơ học do sóng siêu âm có thể làm tăng độ đàn hồi và khả năng xếp nếp của collagen. Điều đó dẫn tới các tác dụng giảm dính, cải thiện độ đàn hồi mô sẹo và tăng dòng máu nuôi da. Nó cũng có thể dùng để điều trị các tổn thương cân cơ. Siêu âm làm tăng nhiệt độ tổ chức và tốc độ xung thần kinh. Nhiệt độ mô khoảng 43oC là cần thiết để tăng dòng máu nuôi một cách thỏa đáng.

Hệ cơ xương khớp:

Khi dùng siêu âm nhiệt, nhiệt độ mô có thể tăng tới 4oC hoặc hơn. Điều đó làm tăng thư giãn các liên kết polypeptide, tăng độ đàn hồi collagen và giảm cứng khớp. Khi nhiệt độ tăng 2 – 3oC, co thắt cơ sẽ giảm. Nhiệt làm tăng cơ chế phản xạ và ức chế hoạt tính thoi cơ và sự phóng lực của các sợi gamma ly tâm. Nhiệt cũng giúp tăng cung cấp máu và oxy, dẫn tới tác dụng giảm đau và giãn cơ.

Siêu âm giúp giảm dính và gia cường sức mạnh, độ mềm dẻo và khả năng xếp nếp của mô sẹo. Trên phương diện lý thuyết, đó là kết quả của sự giảm các liên kết hydro giữa các sợi collagen. Bên cạnh đó, do tác dụng tăng sinh các nguyên bào sợi (tăng tạo collagen dọc các đường sức sức căng), siêu âm có thể tăng hoạt tính các tạo cốt bào, do đó gia tốc sự can sau gãy xương.

Hệ thần kinh cơ:

Không có các khẳng định chắc chắn về tác dụng của siêu âm trên hệ thần kinh ngoại biên. Siêu âm có thể tăng hoặc giảm tốc độ lan truyền xung thần kinh hướng tâm và ly tâm. Tác dụng nhiệt có thể làm tăng ngưỡng đau qua các cơ chế khác nhau (đóng cổng tại tủy gai, giảm co thắt cơ, tăng thải sản phẩm chuyển hóa và các chất gây đau, hoặc kích hoạt các con đường ức chế đau hướng xuống).

Hệ mạch máu và bạch huyết ngoại biên:

Siêu âm làm giảm độ nhớt các dịch ứa, mở mạch bạch huyết và tăng tuần hoàn, dẫn tới tác dụng giảm nề.

Bấm vào đây để xem qua chỉ định và chống chỉ định cho thiết bị siêu âm trị liệu

Đọc tiếp: Bài 63: Thấu nhiệt cao tần ( Bấm để đọc )

Theo dõi thêm các thông tin liên quan về VLTL- PHCN tại đây.

Hãy liên hệ ngay với chúng tôi khi cần tư vấn và giúp đỡ!

Nhắn Zalo
Gọi ngay